IBAITAP: Cùng ibaitap đến với bài học “Người cầm quyền khôi phục uy quyền" hôm nay để cảm nhận được thông điệp về sức mạnh của tình thương mà Huy-gô muốn gửi gắm qua những hình tượng, nhân vật đối lập và diễn biến của tình tiết.
MỤC LỤC
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC TÁC PHẨM NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
- Tác phẩm được thai nghén gần 30 năm, ngay từ năm 1829 V.Huy-gô đã có ý định viết một cuốn tiểu thuyết về người tù khổ sai. Nên sau 1830 V.Huy-gô đặc biệt chú ý đến các vấn đề xã hội như phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, những bất công xã hội, sự sa đọa của con người) từ đó ông bắt đầu sưu tầm tài liệu và bắt đầu viết bộ tiểu thuyết này vào năm 1840. Thoạt đầu nó được gọi là “Những cảnh cùng khổ" và được hoàn thành vào năm 1861.
- “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” được trích trong tiểu thuyết "Những người khốn khổ"
II. TÓM TẮT TÁC PHẨM NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
Phăng tin bị Gia-ve bắt bỏ tù. Nhờ có Giăng Van-giăng chị mới thoát nạn sau đó được đưa vào bệnh xá. Khi đang hết lòng cứu giúp Phăng-tin thì Giăng Van-giăng lại quyết định ra tòa tự thú vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan. Đoạn trích trên kể lại tình huống tên Gia-ve dẫn lính đến bắt Giăng Van-giăng khi ông đến thăm Phăng-tin ở bệnh xá. Khi nghe tin Gia-ve đến, Phăng-tin nghĩ hắn đến bắt mình nên vô cùng sợ hãi vì không muốn dập tắt niềm hy vọng của Phăng-tin nên Giăng Van-giăng đã hạ mình cầu xin Gia-ve cho ông ba ngày để tìm ra con gái của chị. Nhưng tên Gia-ve vẫn tàn nhẫn tuyên bố Giăng Van-giăng là một tên tù khổ sai vượt ngục và hắn sẽ bắt ông. Sau khi nghe những lời lẽ ấy Phăng-tin đã tuyệt vọng tắt thở, căm phẫn trước sự tàn nhẫn của Gia-ve, Giăng Van-giăng đã khôi phục uy quyền khiến Gia-ve phải run sợ. Giăng Van-giăng đến chỗ Phăng-tin nói những lời cuối với chị sau đó đứng dậy quay về phía Gia-ve và nói "giờ thì tôi thuộc về anh".
III. BỐ CỤC TÁC PHẨM NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
Tác phẩm có bố cục 3 phần:
Phần 1 (Từ đầu cho đến "chị rùng mình"): Giăng Van-giăng chưa mất hết uy quyền của thị trưởng.
Phần 2 (Tiếp theo cho đến "Phăng-tin đã tắt thở"): Thân phận thật của Giăng Van-giăng.
Phần 3 (Còn lại): Giăng Van-giăng khôi phục lại uy quyền.
IV. HƯỚNG DẪN SOẠN TÁC PHẨM NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
Câu 1: Phân tích nghệ thuật đối lập hai nhân vật Giăng Van-giăng và Gia-ve qua đối thoại, qua hành động. Nêu ý nghĩa của biện pháp này. (SGK Ngữ văn 11 tập 2- trang 80)
Lời giải chi tiết:
- Nhân vật Giăng Van - giăng:
Khi đứng trước cái ác ông chỉ mong có thêm thời gian để đưa Cô-dét về cho Phăng-tin để làm điều đó Giăng Van-giăng đã sẵn sàng chấp nhận tất cả.
Giăng Van-giăng đã nhún nhường và thậm chí là nhẫn nhục trước Gia-ve để mong có thể thực hiện được cái ước nguyện ấy. Tình thế của nhân vật trong hoàn cảnh này rất khó xử vì để làm yên lòng Phăng-tin trước đó Giăng Van-giăng đã nói dối rằng đã đưa Cô-dét về rồi. Giăng Van-giăng vừa phải van nài tên thanh tra biến chất lại vừa phải e dè để tránh cho Phăng-tin không phải chịu cái tin quá đột ngột có thể gây sốc cho chị. Chính hoàn cảnh ấy đã giúp tác giả thể hiện được toàn diện những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật.
- Nhân vật Gia-ve:
Là một tên độc ác.
Sự độc ác của Gia-ve ban đầu mới chỉ được thể hiện bằng vẻ mặt đắc chí cùng những lời nói cộc lốc, thô lỗ nhưng khi kịch tính của truyện dần lên cao thì hắn sẵn sàng chà đạp lên tất cả. Thậm chí khi Phăng-tin đã tắt thở, Gia-ve vẫn chẳng hề có chút xao động gì với hắn điều quan trọng nhất bây giờ là không thể đánh mất cơ hội tiêu diệt Giăng Van-giăng.
⇒ Ý nghĩa: Làm nổi bật sự tương phản của hai nhân vật. Gia-ve như một con thú khát máu đang săn mồi – Giăng Van-giăng là một người bản lĩnh và tràn đầy tình yêu thương. Đồng thời làm nổi bật sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, sự yêu thương và tàn bạo.
Câu 2: Phân tích những hình ảnh so sánh và ẩn dụ: (SGK Ngữ văn 11 tập 2- trang 80)
- Ở Gia-ve, tác giả đã sử dụng một loạt chi tiết nhằm quy chiếu về một ẩn dụ. Ẩn dụ mà Hugo nhằm gợi lên từ hình ảnh Gia-ve là gì?
- Ở Giăng Van-giăng, ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy về ẩn dụ như ở Gia-ve. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, những chi tiết về Giăng Van-giăng có thể quy chiếu về hình ảnh của ai? (Căn cứ vào đoạn văn gồm những câu hỏi; đoạn nói về cảnh tượng mà "bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến", câu văn miêu tả gương mặt Phăng-tin kèm theo lời bình luận của tác giả.)
Lời giải chi tiết:
- Ở Gia-ve tác giả đã khắc họa thông qua một loạt chi tiết quy chiếu về một ẩn dụ: hình tượng con ác thú Gia- ve. Bộ dạng, ngôn ngữ và hành động như một con ác thú chuẩn bị vồ mồi:
Những tiếng “thú gầm”.
Phóng vào Giăng Van- giăng cặp mắt nhìn như cái móc sắt.
Túm lấy cổ áo.
Phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng.
⇒ Gia-ve mang dã tâm của một loài thú ác thú.
- Khác với Gia-ve ở Giăng Van-giăng ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy về ẩn dụ:
Giăng Van- giăng được quy chiếu về hình ảnh là một con người chân chính và là con người của tình yêu thương.
Để có thể cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, Giăng Van- giăng buộc phải tự thú.
Câu 3: Đọc đoạn văn từ câu "Ông nói gì với chị?" đến câu "có thể là những sự thực cao cả" là phát ngôn của ai? Thuật ngữ văn học dùng để chỉ tên loại ngôn ngữ này? Ở đây, trong câu chuyện kể, nó có tác dụng như thế nào? (SGK Ngữ văn 11 tập 2- trang 80)
Lời giải chi tiết:
- Đoạn văn trên là phát ngôn của tác giả, thuật ngữ văn dùng để chỉ tên loại ngôn ngữ này là: Bình luận ngoại đề (hay “trữ tình ngoại đề”).
Trữ tình ngoại đề là một trong những yếu tố ngoài cốt truyện trong một tác phẩm tự sự đó là những đoạn văn đoạn thơ mà tác giả hay người kể chuyện bộc lộ trực tiếp những tình cảm, ý nghĩ, quan niệm của mình đối với nhân vật hoặc đối với cuộc sống thể hiện trong tác phẩm.
Trữ tình ngoại đề góp phần bộc lộ chủ đề cùng tư tưởng của tác phẩm và làm sáng tỏ thêm hình tượng của nhân vật. Nếu xuất phát từ những tư tưởng tiến bộ, những thể nghiệm sâu sắc về cuộc sống và những đoạn trữ tình ngoại đề có ý nghĩa giáo dục lớn với người đọc.
Câu 4: Qua đoạn trích, hãy nêu những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa. (SGK Ngữ văn 11 tập 2- trang 80)
Lời giải chi tiết:
Những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa trong đoạn trích:
Phóng đại, so sánh và tương phản.
Điều quan trọng hơn cả là tất cả chúng đều bị chi phối bởi đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Đó là trong khi đối lập thực tế với lý tưởng và chủ nghĩa lãng mạn hướng về khuynh hướng khẳng định thế giới lý tưởng.
Thế giới lý tưởng của nhà văn được biểu hiện qua hình ảnh người anh hùng lãng mạn giải quyết những bất công xã hội bằng giải pháp tình thương. Thế giới lý tưởng ấu có thể nhuộm màu ảo tưởng, song điều này vẫn bồi đắp cho con người một tình cảm, một lý tưởng đẹp đẽ, không thể thiếu.
V. LUYỆN TẬP
Câu 1: Phân tích nghệ thuật khắc họa nhân vật Phăng-tin: Trong tình thế tuyệt vọng, ngôn ngữ và hành động của Phăng-tin có gì chứng tỏ một sức mạnh khác thường và sức mạnh ấy là gì? (SGK Ngữ văn 11 tập 2- trang 80)
Lời giải chi tiết:
- Nhân vật chính của đoạn trích là Phăng-tin, tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập để khắc họa lên hình tượng nhân vật.
Phăng tin (nạn nhân) > < Gia- ve ( Đao phủ).
Phăng tin (người chịu ơn) > < Giăng Van-giăng (Vị anh hùng)
- Nghệ thuật miêu tả tâm trạng của Phăng-tin tin tưởng tuyệt đối vào Giăng Van- giăng đến lo lắng và sợ hãi.
Sụp đổ khi niềm tin về chỗ dựa có thể giúp đỡ vượt qua cái ác bị đổ vỡ.
Ngôn ngữ cùng hành động của Phăng-tin thể hiện một sức mạnh khác thường đó là niềm tin vào tình yêu thương, sự công bằng.
Phăng-tin và Giăng Van- giăng cùng chung tuyến nhân vật khi cả hai đều là nạn nhân của Gia-ve.
Câu 2: Vai trò của Phăng-tin trong diễn biến cốt truyện? (SGK Ngữ văn 11 tập 2- trang 80)
Lời giải chi tiết:
Phăng-tin có vai trò quan trọng trong cốt truyện. Có thể xem đây là nhân vật này chính và là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác. Nhờ có những câu chuyện xoay quanh số phận của Phăng-tin mà mà tính cách của các nhân vật đối lập như Giăng Van-giăng và Gia-ve được thể hiện một cách nổi bật.
Câu 3: Sự phân tuyến nhân vật ở đây có nét gì gần gũi với hệ thống nhân vật của văn học dân gian? (SGK Ngữ văn 11 tập 2- trang 80)
Lời giải chi tiết:
Trong đoạn trích việc phân tuyến nhân vật khá rõ và có nhiều nét giống với văn học dân gian đó là cách phân tuyến theo kiểu Thiện - Ác. Nhân vật Giăng Van-giăng, Phăng-tin đối lập với Gia-ve. Việc sắp xếp tuyến nhân vật tuyến xung đột quyết liệt như vậy có tác dụng làm nổi bật trọn vẹn phẩm chất và tính cách của các nhân vật cũng như ý nghĩa tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.