IBAITAP: Cùng ibaitap đến với bài học “Về luân lí xã hội ở nước ta" hôm nay để cảm nhận được tinh thần yêu nước, tư tưởng tiến bộ của Phan Châu Trinh khi kêu gọi gây dựng nền luân lí xã hội ở nước ta.
MỤC LỤC
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC TÁC PHẨM VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
- Được sáng tác vào 19/11/1925 tại Hội Thanh niên ở Sài Gòn.
- “Về luân lí xã hội ở nước ta” nằm ở phần ba của “Đạo đức và luân lí Đông Tây”
II. TÓM TẮT TÁC PHẨM VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Nước ta không một ai biết đến luân lý xã hội và nhân dân ta cũng không biết cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người cùng nghĩa vụ của mỗi người sống trong cùng một nước với nhau. Vì vậy dẫn đến ai sống, ai chết mặc ai, người này cũng chẳng quan tâm đến người khác nên luân lý xã hội chẳng thể tồn tại. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do thiếu ý thức đoàn thể và chưa biết giữ quyền lợi chung, chưa biết bênh vực nhau. Nhân dân ta từ xưa đến nay cũng đã có ý thức đoàn thể nhưng điều này đã sa sút. Nước ta chưa có luân lý xã hội là còn do bè lũ vua quan chỉ biết tham quyền vụ lợi, mua quan bán tước và chỉ muốn nhân dân nô lệ có như vậy thì ngôi vua mới lâu dài, bọn quan lại mới càng phú quý. Chính vì vậy nước Việt Nam muốn có được độc lập, tự do thì trước hết nhân dân phải có đoàn thể, mà muốn có được đoàn thể thì phải tuyên truyền xã hội chủ nghĩa.
III. BỐ CỤC TÁC PHẨM VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Tác phẩm có bố cục 3 phần:
Ở nước ta chưa có luân lí xã hội và mọi người cũng chưa có ý niệm về luân lí xã hội.
Ở Châu Âu luân lí xã hội đã phát triển mà nước ta lại không biết hợp sức giữ quyền lợi chung. Vua quan không muốn nhân dân có tinh thần đoàn thể, dân nô lệ thì ngôi vua mới được lâu dài và quan lại mới càng phú quý.
Nước Việt Nam muốn có được độc lập, tự do thì trước tiên phải có đoàn thể lo công ích và mọi người lo cho lợi ích của nhau.
⇒ Ba phần này liên hệ với nhau theo mạch diễn giải: hiện trạng chung, những biểu hiện cụ thể và giải pháp nhằm hướng tới việc xây dựng tập thể đoàn kết, giành độc lập, tự do.
IV. HƯỚNG DẪN SOẠN TÁC PHẨM VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Câu 1: Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần. Hãy nêu ý chính của từng phần và xác lập mối liên hệ giữa chúng. Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là gì? (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
Đoạn trích gồm 3 phần:
Ở nước ta chưa có luân lí xã hội và mọi người cũng chưa có ý niệm về luân lí xã hội.
Ở Châu Âu luân lí xã hội đã phát triển mà nước ta lại không biết hợp sức giữ quyền lợi chung. Vua quan không muốn nhân dân có tinh thần đoàn thể, dân nô lệ thì ngôi vua mới được lâu dài và quan lại mới càng phú quý.
Nước Việt Nam muốn có được độc lập, tự do thì trước tiên phải có đoàn thể lo công ích và mọi người lo cho lợi ích của nhau.
⇒ Ba phần này liên hệ với nhau theo mạch diễn giải: hiện trạng chung, những biểu hiện cụ thể và giải pháp nhằm hướng tới việc xây dựng tập thể đoàn kết, giành độc lập, tự do.
Câu 2: Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã chọn cách vào đề như thế nào để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lý xã hội. (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
- Tác phẩm được tác giả trình bày trong buổi diễn thuyết tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn vào đêm 19/11/1925 đối tượng nghe là "người nước mình", "anh em", "dân Việt Nam". Vì vậy mà ông đã đặt vấn đề một cách khá thẳng thắn, gây ấn tượng mạnh cho người nghe. Vấn đề mà Phan Chu Trinh trình bày và khẳng định ở đây là: ở Việt Nam chưa có luân lý xã hội.
- Để có thể đánh tan những ngộ nhận ở người nghe về sự hiểu biết của chính họ trên vấn đề này, Phan Chu Trinh đã dùng cách nói phủ định: "Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lý thì người mình còn dốt nát hơn nhiều". Sau đó lường trước khả năng hiểu đơn giản, thậm chí xuyên tạc vấn đề của không ít người ông đã khẳng định: "Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lý được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì".
⇒ Cách vào vấn đề này cho ta thấy tư duy sắc sảo và nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
Câu 3: Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh "bên Âu châu", "bên Pháp" với "bên ta" về điều gì? (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
- Trong phần 2, ở hai đoạn đầu tác giả đã so sánh “bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên mình” về quan niệm cùng nguyên tắc cốt yếu của luân lý xã hội “ý thức giữa người với người”:
Người với người cần có mối quan hệ xã hội, cộng đồng.
Đề cao tính dân chủ của phương Tây (đề cao dân chủ, coi trọng bình đẳng và không chỉ quan tâm tới gia đình mà còn quan tâm đến cả quốc gia, thế giới).
Ở Pháp mỗi khi chính phủ đè nén hay lợi dụng quyền thế thì người ta sẽ kêu nài hoặc chống cự, thị oai, khi được công bình mới nghe.
⇒ Nguyên nhân của hiện tượng này là do người ta có đoàn thể, có ý thức sẵn sàng làm việc chung, giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của nhau.
- Đối lập với nước ta:
Nhân dân ta không hiểu nghĩa vụ của loài người ăn ở với người và không biết nghĩa vụ của mỗi người trong nước với nhau.
⇒ Nguyên nhân là do nước ta thiếu tinh thần tập thể và thiếu sự đoàn kết.
Câu 4: Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng "dân không biết đoàn thể, không trọng công ích" là gì? Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế ra sao? (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
- Nguyên nhân của tình trạng “dân không biết đoàn thể, không trọng công ích” là do bọn vua quan ham quyền tước, ham vinh hoa nên tìm mọi cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.
- Phan Chu Trinh đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế:
Bọn vua quan ích kỷ, tham lam chỉ vun vén cho quyền lợi và chức vị của mình.
Thái độ bàng quan, không thương dân chúng đói khổ mà còn lợi dụng dân ngu dốt để "ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý".
Thói chạy theo quyền tước, mua quan bán chức và vun vén cá nhân trở thành xu thế.
Trước sự lộng quyền, nhũng nhiễu của bọn vua quan "không ai phẩm bình", "không ai chê bai", "không ai khen chê" và cũng “không ai khinh bỉ".
⇒ Tác giả đã bày tỏ thái độ khinh bỉ và sự căm ghét đối với bọn vua quan cùng nỗi đau xót trước sự ngu dốt, sự khốn khổ của đông đảo dân chúng.
Câu 5: Nhận xét về cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích. (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
- Yếu tố nghị luận được thể hiện ở hệ thống luận điểm gắn với lí lẽ, dẫn chứng, tranh luận và bảy tỏ chính kiến.
- Yếu tố biểu cảm được thể hiện ở câu cảm thán, câu hỏi tu từ và những hình ảnh ví von. Nó góp phần làm cho lí lẽ của bài diễn thuyết thêm sức sinh động. Người nghe sẽ cảm thấy tác giả không chỉ nói bằng lí trí tỉnh táo mà còn nói bằng cả trái tim hướng về dân tộc, đau xót thê thảm trước hiện trạng xã hội Việt Nam.
V. LUYỆN TẬP
Câu 1: Đọc lại Tiểu dẫn và hình dung hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng của tác giả khi viết đoạn trích. (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
- Phần tiểu dẫn đã nói rõ Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, huỷ bỏ chế độ Nam Triều và cải cách để đổi mới dân tộc.
- Bài diễn thuyết đã xây dựng được tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, vạch trần sự xấu xa và sự thối nát của chế độ chuyên quyền.
- Tâm trạng khi nói là tâm trạng căm tức, phẫn nộ, xen với sự xót xa và lo lắng cho đất nước hy vọng tương lai tươi sáng.
Câu 2: Có thể cảm nhận được gì về tấm lòng Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này? (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
- Thấm sâu là tấm lòng của một người có tình yêu nước tha thiết, quan tâm tới vận mệnh của dân tộc, xót thương trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân.
- Căm ghét lũ quan lại xấu xa, tham lam.
- Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng sắc sảo.
- Muốn có một đoàn thể thì cần có một tư tưởng mới, tư tưởng xã hội chủ nghĩa vì thế mà Phan Chu Trinh chủ trương truyền bá tư tưởng chủ nghĩa.
Câu 3: Chủ trương gây dựng nền luân lý xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay còn có ý nghĩa thời sự không? Tại sao? (SGK ngữ văn 11 tập 2- trang 88)
Lời giải chi tiết:
Chủ trương gây dựng nền luân lý xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự vì nó nhắc về tầm quan trọng của việc gây dựng tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, nhằm tạo nên ý thức trách nhiệm với cộng đồng, với tương lai đất nước của mọi người sống trong xã hội. Nó cũng cảnh báo nguy cơ tiêu vong các quan hệ xã hội tốt đẹp nếu vẫn còn những kẻ ích kỉ, "ham quyền tước, ham vinh hoa" và tìm cách vơ vét cho đầy túi mà không muốn ai bị lên án.