[SOẠN BÀI] ÔN TẬP VÀ TỰ ĐÁNH GIÁ CUỐI HỌC KÌ I

I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

Câu 1: Thống kê ra vở tên các thể loại, kiểu văn bản và tên văn bản cụ thể đã học trong sách Ngữ văn 7, tập 1 theo bảng sau: (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 119)

Lời giải chi tiết:

Câu 2: Trình bày ra vở nội dung chính của các văn bản đọc hiểu trong sách Ngữ văn 7, tập 1 theo bảng sau: (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 120)

Lời giải chi tiết:

Câu 3: Nêu những điểm cần chú ý về cách đọc thơ (bốn chữ, năm chữ), truyện (truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện khoa học viễn tưởng) trong sách Ngữ văn 7, tập 1 theo mẫu sau.  (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 120)

Lời giải chi tiết: 

- Truyện ngắn: Chú ý đến các tình tiết, sự kiện quan trọng và diễn biến tâm lí của nhân vật.

- Tiểu thuyết: Khi đọc một phần hay một đoạn trích cần tìm hiểu về nội dung chính của cả cuốn tiểu thuyết để nắm rõ được nội dung chính. 

- Truyện khoa học viễn tưởng: Chú ý đến liên kết, tưởng tượng và hình dung ra những chi tiết hấp dẫn trong tác phẩm.

Câu 4: Hãy giới thiệu tóm tắt về một văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập một có nội dung gần gũi, giàu ý nghĩa đối với đời sống hiện nay và với chính bản thân em. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 120)

Lời giải chi tiết: 

Văn bản có nội dung gần gũi, giàu ý nghĩa đối với đời sống hiện nay và với chính bản thân em đó là văn bản “Hội thi thổi cơm” vì nó giúp em hiểu thêm được về các lễ hội truyền thống ở quê hương đất nước mình.

II. VIẾT

Câu 5: Thống kê tên các kiểu văn bản và yêu cầu luyện viết các kiểu văn bản ấy trong sách Ngữ văn 7, tập một theo bảng sau: (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 120)

Lời giải chi tiết:

Câu 6: Nêu các bước tiến hành viết một văn bản theo thứ tự trước sau, chỉ ra nhiệm vụ của mỗi bước: (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 121)

Lời giải chi tiết:

Câu 7: Nêu một số điểm khác biệt giữa văn bản phân tích đặc điểm nhân vật trong tác phẩm văn học với văn bản giới thiệu luật lệ, quy tắc của một hoạt động hay trò chơi. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 121)

Lời giải chi tiết: 

- Văn bản phân tích đặc điểm nhân vật trong tác phẩm văn học là giới thiệu mô tả những nét tiêu biểu của nhân vật như: lai lịch, xuất thân, hình dáng bên ngoài, suy nghĩ, lời nói, việc làm,…và nêu nhận xét của người viết về nhân vật đó, văn bản phân tích đặc điểm nhân vật thuộc kiểu văn bản nghị luận.

- Văn bản giới thiệu luật lệ, quy tắc của một hoạt động hay trò chơi là giới thiệu những quy định mà các thành viên tham gia hoạt động hay trò chơi ấy cần tôn trọng và tuân thủ, văn bản giới thiệu luật lệ, quy tắc của một hoạt động hay trò chơi thuộc kiểu văn bản thuyết minh.

III. NÓI VÀ NGHE

Câu 8: Nêu các nội dung chính được rèn luyện trong kỹ năng nói và nghe liên quan chặt chẽ đến nội dung đọc hiểu và viết. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 121)

Lời giải chi tiết:  

Những nội dung chính được rèn luyện trong kỹ năng nói và nghe liên quan chặt chẽ đến nội dung đọc hiểu và viết là:

  • Trình bày ý kiến về một vấn đề trong đời sống.
  • Trao đổi về một vấn đề.
  • Thảo luận nhóm về một vấn đề.
  • Giải thích quy tắc của một hoạt động luật lệ hay trò chơi.

IV. TIẾNG VIỆT

Câu 9: Liệt kê các nội dung thực hành tiếng Việt được học trong sách Ngữ văn 7, tập 1 theo bảng sau: (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 121)

Lời giải chi tiết:

V. TỰ ĐÁNH GIÁ CUỐI HỌC KÌ I

ĐỌC HIỂU

a. Cho hai khổ thơ sau và ghi vào vở chữ cái đứng trước phương án trả lời đúng cho mỗi câu hỏi (từ câu 1 đến câu 6)

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

(Trích Sang thu – HỮU THỈNH)

Lời giải chi tiết:

VIẾT

Đề 1: Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng, yêu thích. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 124)

Lời giải chi tiết:

Ở chương trình Ngữ văn 7 em đã học rất nhiều tác phẩm văn học đặc sắc nhưng nhân vật để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất là nhân vật Võ Tòng, trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng. 

Không một ai biết chú Võ Tòng tên thật là gì? Quê ở đâu? Người ta chỉ biết chú tên là Võ Tòng từ khi chú giết chết con hổ chúa hung bạo. Võ Tòng có hai hố mắt sâu hoắm và từ trong đáy hố sâu thẳm đó là một cặp tròng mắt trắng dã, long qua, long lại, sắc như dao. Chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng có lẽ lâu ngày chưa giặt, trông như chiếc quần lính Pháp có sáu cái túi. Bên hông chú thường đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt, chú có ngoại hình phóng khoáng thể hiện sự mạnh mẽ gan dạ. Cuộc đời Võ Tòng thật bất hạnh vì chú phải chịu nỗi oan ức thê thảm đẩy chú vào ngục tù. Trước khi đi tù chú cũng đã có một gia đình, có người vợ xinh xắn. Khi vợ chú mang thai đứa con đầu lòng vì vợ thèm ăn măng nên chú đã xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụi măng. Khi về, đi qua bờ tre nhà tên địa chủ, chú bị hắn vạ cho tội ăn trộm. Chú cãi lại rồi tên địa chủ đánh vào đầu chú, chú đánh lại và tự lên nhà việc nộp mình. Sau khi chú ra tù vợ chú đã làm lẽ của tên địa chủ còn đứa con trai độc nhất chưa biết mặt cũng chết từ khi chú ngồi trong tù. Chú không đi tìm tên địa chủ để quyết đấu hay trả thù mà bỏ làng ra đi vào rừng ở quanh năm săn bắt thú.

Võ Tòng là một người mạnh mẽ, gan dạ lại có tinh thần yêu nước sâu sắc, điều đó được thể hiện cuộc chiến đấu với con hổ chúa, khi đánh lại tên địa chủ và dũng cảm ra nhà việc nhận tội và cả khi sẵn sàng làm nỏ tẩm thuốc cho ông Hai để bắn quân giặc.

Từ đây ta có thể thấy Võ Tòng là một nhân vật tiêu biểu đại diện cho những người dân Nam Bộ, phóng khoáng, mạnh mẽ, gan dạ và có tinh thần nồng nàn yêu nước. 

Đề 2: Nêu suy nghĩ và cảm xúc của em sau khi đọc hai khổ thơ trích từ bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh nêu trên. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 124)

Lời giải chi tiết:

Bài thơ là những cảm nhận cùng những rung động man mác, bâng khuâng của Hữu Thỉnh trước vẻ đẹp cùng sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Điều đó được thể hiện rõ nét qua 2 khổ thơ đầu. Mùa thu sang được báo hiệu bằng hương ổi thân quen nơi vườn mẹ chứ không phải sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” chính điều ấy đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ. Câu thơ mang hương vị nồng ấm chớm thu của một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên mà tác giả nhận ra đó là màu thu đó chính “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” vào trong gió thoảng bay khắp không gian. Cảm giác bất chợt đến với tác giả, đây là một sự bất ngờ mà như đã đợi chờ từ rất lâu. Câu thơ không chỉ để tả mà nó còn cho ta liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt và chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Không chỉ có thế, cả sương thu cũng như chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn. Sương thu đã được tác giả nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ những bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tác giả “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu ông vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn của nhà thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng và mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu. Không gian nghệ thuật của bức tranh màu thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ thuở ban đầu đã tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi. Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi nó như cố tình chậm lại, những cánh chim lại dần vội vã bay về phương Nam tránh rét. Không gian thu thư thái, hữu tình mà lại thi vị. Hai câu thơ cuối khổ đã giúp ta hình dung rõ ràng về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng cũng mang ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm và mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới.