[SOẠN BÀI] VIẾT BÀI VĂN PHÂN TÍCH MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC

Đề bài: Trong phần Đọc, em đã được học các tác phẩm mẫu mực của thể thơ thất ngôn bát cú và tứ tuyệt Đường luật. Em hãy vận dụng các thao tác, kĩ năng đọc hiểu đã được hình thành, rèn luyện để viết bài văn phân tích một bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật. (SGK Ngữ văn lớp 8 Tập 1 - trang 48)

Lời giải chi tiết

Trong nền văn học nếu chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ và bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc chắn sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng và trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy của Bà Huyện Thanh Quan đó là bài thơ “Qua đèo Ngang".

“Qua đèo Ngang" được sáng tác khi bà vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đây. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ đó là nỗi buồn man mác, nhớ nhà nhớ quê hương và thương thay cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. 

Chỉ với 8 câu thơ nhưng bài thơ đã diễn tả hết được thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người thì cũng man mác buồn như thế. Hai câu đề đã gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ của đèo Ngang. Không gian và thời gian được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian, là cảm xúc trong lòng người, nó dường như nặng nề, gợi buồn và gợi sầu hơn. Trong ca dao dân ca chúng ta thường bắt gặp thời điểm chiều tà để đặc tả nỗi buồn mà không biết bày tỏ cùng ai. Khi mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này thì cảm giác cô đơn, lạc lõng càng rõ ràng hơn. Cảnh vật thiên nhiên dường như quạnh quẽ đến nao lòng, chỉ còn có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen" như làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này, hoa lá quấn lấy nhau, chúng bám chặt lấy nhau để sống, để sinh sôi.

Đến hai câu thực ta mới thấp thoáng thấy được hình ảnh của con người nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú" - hoá ra cũng chỉ là một vài chú tiểu nhỏ bé đi nhặt củi dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng nó tồn tại quá mong manh và hư vô. Bà huyện Thanh Quan đã sử dụng phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ để nhấn mạnh sự hoang sơ và sự hiu quanh của đèo Ngang. 

Tác giả sử dụng từ láy "lom khom" và "lác đác" vừa để chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mỏng manh ấy đang chờn vờn ngay trước mắt nhưng lại xa lắm, muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu luận thì cảm xúc  cùng tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy. Điệp âm "con cuốc cuốc" và "cái da da" đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng cũng rất não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, thủ pháp lấy động tả tĩnh của Bà huyện Thanh Quan thật đắc điệu. Trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ ấy bỗng nhiên có tiếng chim kêu càng thêm não nề, thê lương. Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả  "nhớ nước, thương nhà" thương cảnh nước nhà đang chìm trong loạn lạc, gia đình li tán và thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của tác giả như sâu thẳm tầng mây, nó trùng trùng điệp điệp không dứt. Đến hai câu kết cảm xúc cùng nỗi niềm ấy đã được đẩy lên đỉnh điểm. Chỉ với bốn chữ "dừng chân nghỉ lại" đã khiến người đọc thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông và vô tận nhưng con người lại nhỏ bé khiến bà thấy lạc lõng, không có nơi bấu víu. Đất trời tuy rộng lớn nhưng tác giả chỉ cảm thấy còn "một mảnh tình riêng" và cái mảnh tình  ấy cũng chỉ có "ta với ta". Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn đến thấu tâm can và buồn đến nghiêng ngả trời đất. 

"Qua đèo Ngang" với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương cùng thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho ta những cảm xúc khó quên và dư âm của nó dường như còn vang vọng đâu đây.